Bạn được biết rằng sanh tử là việc quan trọng . Việc sanh về một cõi tịnh độ vô cùng tổt đẹp là điều mà ai ai cũng mong muốn . Nhờ sức gia trì của cát Mandala . Bạn có thể dễ dàng giúp người khác siêu sinh tịnh độ . Như của tôi là cát man đa la của Tara trắng , sẽ giúp người đó được siêu sinh tịnh độ Unikog của đức Tara .
Nghiệp chướng nhiều , bệnh tật , phiền não .... Trong kinh có nói nếu đặt cát Man đà là có thể tiêu trừ vô lượng nghiệp chướng sanh tử luân hồi . Chỉ cần đặt cát lên đỉnh đầu . Vì man da la là một đàn tràng , hiện thân của Thân khẩu ý của vô lượng phật đà . Vì vậy chúng có số lượng công đức đồ sộ như xá lợi Phật vầy .
Trước khi một vị sư có thể được phép tham gia xây dựng một mạn-đà-la, người đó phải học trong một thời gian dài về nghệ thuật và triết học. Tất cả các sư Phật giáo ở các tự viện Tây Tạng đều được yêu cầu học về cách dựng các mạn-đà-la như là một phần của việc rèn luyện. Quá trình học có hai lớp bao gồm việc ghi nhớ các văn bản cho các tên, độ dài, và vị trí cửa các đường chuẩn dùng để xác định cấu trúc cơ bản của các mạn-đà-la cũng như là các kĩ thuật bằng tay để vẽ và rải dòng cát. Các văn bản này tuy vậy không miêu tả từng đường nét và cũng không chỉ rõ từng chi tiết của mỗi mạn-đà-la, mà đúng hơn nó được dùng như một ghi nhớ hướng dẫn để hoàn thành các dạng mạn-đà-la. Nội dung mạn-đà-la đặc biệt đều dựa vào các lời kinh. Việc thực hiện mạn-đà-la phải được thực tập lập đi lập lại để tạo dựng nó dưới sự hướng dẫn của các vị sư có kinh nghiệm. Trường hợp của đức Đạt-lai Lạt-ma, tại tự viện riêng Namgyal chu kì học này kéo dài trong 3 năm.
Tiến trình xây dựng mạn-đà-la sẽ đòi hỏi kiên trì làm việc trong nhiều ngày có khi nhiều tuần lễ. Theo truyền thống, có 4 sư làm việc chung nhau trên một mạn-đà-la. Mạn-đà-la được chia thành các góc tư với mỗi sư lo một góc. Trong thời gian của tiến trình, mỗi sư nhận được hỗ trợ để cung cấp đủ cát màu trong khi sư trọng trách tiếp tục làm việc trên các chi tiết đã được kẻ khung trên phần của mình.
Công việc phải phải được tiến hành cực kì cẩn thận và chú tâm. Khi tiến hành, các sư thực ra đang được truyền đạt các giảng huấn của Phật. Bởi vì mạn-đà-la chứa đựng các chỉ dạy của Phật để đạt tới giác ngộ, để thuần khiết hóa động cơ và để hoàn hảo hóa công việc của họ nhằm cho phép những người chiêm bái nó được hưởng tối đa phúc lợi
Trước tiên, các sư cúng dường mạn-đà-la thông qua việc đọc kinh, chú với nhạc lễ. Mạn-đà-la được xây dựng từ trung tâm mở rộng ra ngoài theo trình tự, bắt đầu từ 1 điểm ở tâm. Với việc đặt điểm ở tâm, mạn-đà-la được cúng dường cho một vị Hộ Phật riêng biệt. Vị Hộ Phật này thường được miêu tả trong một hình ảnh phía trên của tâm điểm, mặc dù vậy, một số mạn-đà-la chỉ đơn thuần có tính địa hình học.
Trong các giai đoạn đầu của công việc, các sư ngồi bên ngoài của bệ (hay khung) vẽ mạn-đà-la và luôn đối mặt với tâm của mạn-đà-la. Đối với các mạn-đà-la cở lớn, các sư sau đó sẽ phải đứng và cong người để rải cát màu.
Các đường kẻ được vẽ qua tâm điểm đến 4 góc tạo ra dạng thức tam giác vuông cân. Các đường này được dùng để kiến trúc một cung điện với 4 cổng. Mỗi cổng sẽ được trang hoàng với các chuông, vòng hoa, thú giữ cổng hay các vật biểu tượng khác. Hình dạng vuông mô tả theo kiến trúc là bốn mặt của cung điện hay của tự viện. gọi là Cung điện là vì nó là nơi ngụ của các Hộ Phật, gọi là tự viện vì nó bao gồm cốt lõi Phật.
Từ hình vuông bên trong, các sư dựng một dãy các đường tròn đồng tâm. Ở đây những người tham gia làm việc theo lối tuần tự, tất cả di chuyển quanh mạn-đà-la. Họ phải chờ cho đến khi mỗi phần chia được hoàn tất trước khi làm việc phần phía xa tâm hơn cùng nhau. Điều này bảo đảm cho sự cân bằng công việc không ai nhanh hơn ai.
Thường, cát màu được rải bởi một dụng cụ hình phểu (gần giống như các dụng cụ "bắt bông kem" trên các bánh bunche noel nhưng phểu bằng đồng thau và dài khoảng 30-50 cm). Trên phiểu có các khất nhỏ liền nhau, khi rải cát, người tham gia cà đi cà lại một thanh nhỏ lên các khất này tạo sự rung động làm cho dòng cát chảy ra được đều đặn và không bi tắc ách.
Ở trung tâm đặt (vẽ cát) một vị Hộ Phật mà từ đó mạn-đà-la được định danh. Thường thì vị Hộ Phật trung tâm này là một trong các dạng:
* Các Hộ Phật bình an: Một Hộ Phật bình an làm biểu tượng cho tiếp cận tinh thần và tồn tại riêng của mạn-đà-la. Chẳng hạn như hình ảnh của Bồ tát Quán thế âm biểu trưng cho lòng từ bi ở trung tâm của việc tập trung về thể nghiệm tinh thần, trong khi hình ảnh của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và của Kim cương thần (vị nữ giới tương ứng tinh thần) thì nhấn mạnh cho sự cần thiết của dũng khí và sức mạnh trong hành trình cho trí bát nhã thiên liêng.
* Các Hộ Phật dữ tợn: Nói lên sự đấu tranh dữ dội để vượt qua các trạng thái tâm lý xa lạ của một người. Họ nhấn mạnh các đau khổ nội tâm mà làm cho thân, khẩu, ý của chúng ta bị tối tăm và do đó cản ngăn thành tựu mục tiêu của Phật tử là để giác ngộ hoàn toàn. Theo truyền thống thì các Hộ Phật dữ tợn được hiểu là các khía cạnh của các nguyên lý nhân từ.
* Hình ảnh tính dục: nói lên tiến trình dung hợp nằm bên trong trái tim của mạn-đà-la. Hai thành tố đực và cái không có ý nghĩa gì ngoài ý nghĩa tượng trưng cho vô hạn các cặp đối kháng (chẳng hạn yêu và ghét, tốt và xấu, ...) khi mà một người kinh nghiệm trong sự tồn tại thế tục. Hình ảnh tính dục cũng có thể được hiểu như là ẩn dụ cho giác ngộ với các phẩm chất của sự vui sướng, mãn nguyện, thống nhất và hoàn tất.
Sau khi hoàn tất, các sư dâng hiến công đức cho lợi ích của tha nhân qua các lễ cầu nguyện.
Lý do có Lễ Xóa Mạn Đà La được chư Tăng giải thích là để nêu lên ý nghĩa vô thường, một pháp ấn mà Đức Phật đã dạy, rằng ngay tới một tác phẩm tuyệt đẹp như Mạn Đà La Tara cũng rồi phải theo định luật có sanh thì có diệt, có hợp thì có tan, và đã thành tựu là sẽ có hủy hoại. Và vì đời sống vô thường như thế, cho nên tất cả Phật Tử đều phải chiêm nghiệm ý nghĩa vô thường để khẩn cấp tu học, nhằm đạt cứu cánh Niết Bàn.
Cát Mạn Đà La
Trong truyền thống Mật Giáo Tây Tạng thì Mạn Đà La có thể được tạo bằng nhiều cách nư sau:
1-Bằng bơ hay bột
2-Bằng gỗ
3-Bằng cát
4-Bằng họa
5-Bằng các loại đá quý vàng bạc
Mạn Đà La Cát là dùng cát loại cát nhuyễn nhiều màu sắc để tạo thành.
Thường thì Mạn Đà La Cát chỉ được lưu giữ trong thời gian làm lể Quán Đảnh hay là các Lễ Cúng Dường Đặc Biệt rồi sau đó thì sẽ xóa đi.
Chỉ có các trường hợp đặc biệt do sự cho phép của Đức Đạt Lai Lạt Ma thì các Mạn Đà La Cát mới được lưu giữ lại sau buổi lễ.
Mạn Đà La Cát là biểu trưng cho cõi Tịnh Độ của một vị Bổn Tôn của một Pháp Quán Đảnh.
5 phương của Mạn Đà là là tượng trưng cho Ngũ Trí Như Lai Phật. Trong Mạn Đà La còn có các hình tượng như là ấn, pháp khí, chủng tự của mỗi Đức Phật.
Mạn Đà La Cát là một đồ hình 3 chiều không gian cần phải rất nhiều thời gian mới có thể hoàn thành.
Những đồ hình Mạn Đà La Cát thường thấy đó chỉ là một phần của một Mạn Đà La hoàn tất.
Có các Mạn Đà La cần phải 49 ngày mới hoàn thành bởi vì cứ mỗi 7 ngày thì chư tăng hoàn thành một phần và làm lễ chú nguyện gia trì.
Mạn Đà La như là một thế giới hải mà mỗi một hạt cát là một hệ thống thế giới. Mạn Đà La tượng trưng cho lý Hoa Nghiêm Pháp Giới Trùng Trùng Duyên Khởi Vô Tận.
Lễ Xóa Mạn Đà La cũng là tượng trưng cho Lý Tánh Không Duyên Khởi đó là các Pháp Không Có Tự Tánh Đều Do Duyên Biến Hiện.
Sau khi hoàn mãn một buỗi lễ thì cát Mạn Đà La được phân chia cho Phật Tử và một phần đổ xuống biển hay sông để chú nguyện cho các Long Vương.
Cát Mạn Đà La dùng để sử dụng trong các trường hợp sau đâu
1-Bị Bịnh Nặng mà hành hạ dở sống dở chết
2-Lúc sắp tắt thở
3-Lúc vừa chết
4-Lúc Liệm
5-Lúc Chôn
Dùng cát Mạn Đà La để trên đảnh đầu người của người bịnh rồi chú nguyện thì nếu người đó nghiệp nặng hành hạ dở sống dở chết thì sẽ được :
1-Là được chết nhẹ nhàng và được Vãng Sanh.
2-Hết Bịnh
Là giúp người đó không bị đọa xuống ba đường ác và được Vãng Sanh.
Tại sao phải để cát Mạn Đà La trên đảnh đầu mà không để nơi khác trên thân mình.
Lý do là vì khi sắp chết hay là vừa tắt thở thì Thần Thức sẽ theo Nghiệp của mình đã tạo lúc trước mà xuất ra.
1-Đảnh Sanh Cõi Phật
2-Trán Sanh Cõi Trời, (A Tu La, Rồng cũng thuộc về Chư Thiên nhưng mà có lòng sân nặng hơn chư thiên)
3-Ngực Sanh Cõi Người
4-Bụng Sanh Ngã Quỷ
5-Gối Sanh Súc Sanh
6-Bàn Chân Sanh Địa Ngục
Dùng cát Mạn Đà La để trên rải trên xương cốt của người thú thì khiến người thú xả bỏ ác đạo được Vãng Sanh.
Khi dùng cát mandala bạn nhớ trì chú 108 biến Om mani padme hum
Lobsang Nyma
Man-đa-la tập trung thiền định là cõi giới của vị Thần Linh ( idam ), nó là xuất phát điểm của nhiều phương pháp Quán đỉnh. Tại Tây Tạng, người ta hiểu Man-đa-la là »trung tâm và ngoại vi«, là cơ sở để hiện tượng hợp nhất với bản thể.
Vì vậy trong một Man-đa-lâ, người ta thường thấy vô số cảnh vậtt, hình tướng khác nhaau, nhưng chúng nằm trong một tranh vẽ duy nhất với thứ tự trên dưới rõ rệt.
Mandala cát khi vẽ là hai chiều nhưng tượng trưng cho 3 chiều .
Trong Kim cương thừa, Man-đa-la không chỉ là đối tượng thiền quán mà còn là bàn thờ để thiền giả bày biện các lễ vật hay pháp khí. Tuy thế muốn được làm như thế, hành giả phải được một vị đạo sư thừa nhận và cho phép thực hiện Nghi quĩ (s: sādhana) đó
Có 4 cách để xây dựng một Man-đa-la:
1. Bằng một bức họa (Thăng-ka),
2. Bằng cát nhuộm màu,
3. Bằng từng đống gạo nhỏ
4. Bằng vật thể ba chiều, thường là kim loại.
LDK thấy có khi : làm bằng ngọc được ghiền nát hay đá ....