DANH MỤC CHÍNH
HỎI ĐÁP

0984858116
Đại Đức Thích Trí Đạt
LỊCH VẠN NIÊN
THỐNG KÊ
Số người Online: 8
Tổng truy cập: 0614131
Hình ảnh

Luật

Giới Định Tuệ

BA HỌC GIỚI-ĐỊNH-TUỆ - Thích Đức Thắng

BA HỌC

GIỚI-ĐỊNH-TUỆ

Thích Đức Thắng

Hành giả học Phật điều kiện đủ là phải học qua ba học Giới-Định-Tuệ, để từ đó hiểu được cốt lõi của sự thực hành tu tập phải đặt nền tảng căn bản từ đâu mà thanh tịnh hóa ba nghiệp thân-khẩu-ý đưa đến giải thóat tất cả mọi thứ phiền não và đạt an vui tịch tĩnh trong cuộc sống? Ba học này còn gọi là ba thắng học; vì nếu hành giả áp dụng ba học này trong tu tập thì chúng sẽ thắng tất cả mọi thứ phiền não nghiệp có được từ trong vô lượng kiếp chúng ta đã tạo ra nhờ vào việc áp dụng ba học này. 

- Cái học thứ nhất về giới cho chúng ta biết rằng, Giới có khả năng ngăn ngừa, phòng bị, đình chỉ các tác nghiệp ác do thân-khẩu-ý sinh ra và, nó cũng có khả năng làm tăng trưởng nghiệp thiện cho hành giả khi tu tập thực hành giới. Vì vậy cho nên được đức Đạo sư gọi là Tăng giới học (adhiśīla). 

- Cái học thứ hai định cho chúng ta biết rằng,  Định có khả năng thâu nhiếp mọi tán loạn, lắng sạch tinh thần, loại trừ mọi thứ tạp niệm, nhờ đó mà thấy thật tánh ngộ đạo. Vì vậy nên đức Đạo sư gọi là Định học, hay tăng Tâm học (adhicitta), còn gọi là tăng ý học, tăng thượng ý học, hay tăng thượng tâm học. 

- Cái học thứ ba Tuệ cho chúng ta biết rằng, Tuệ có khả năng hiển bày bản tánh, đoạn trừ phiền não, thấy được thật tướng của chư Phật. Vì vậy nên đức Đạo sư gọi Tuệ là tăng Tuệ học (adhiprajñā), hay còn gọi là tăng thượng Tuệ học. 

Tiếp theo chúng tôi sẽ y cứ vào kinh luận để lý giải về nội dung cùng ý nghĩa của ba học Giới-Định-Tuệ tùy thuộc vào thuộc tính của từng đối tượng mà giải thích từng phạm trù một của chúng một cách rõ ràng hơn.
 

I – GIỚI, Sanskrit gọi là Śīla (Pāli. Sīla) dịch ân là Thi-la, ý chỉ cho hành vi, tập quán, tánh cách, đạo đức, cung kính, là một trong ba học, là một trong Sáu Ba-la-mật hay, là một trong Mười Ba-la-mật. Đó là ý nghĩa được tóm lược ngắn gọn cho hành giả chúng ta dễ nắm bắt, còn đứng về mặt ý nghĩa rộng thì Giới được định nghĩa bao gồm mọi thói quen tập quán thiện ác đều được gọi là Giới cả, như thói quen tập quán tốt thì gọi là thiện giới hay còn gọi là luật nghi thiện, còn thói quen tập quán đưa đến phá hoại thì gọi là ác giới hay còn gọi là luật nghi ác. Ở đây thiện giới còn gọi là tịnh giới, đặc chỉ cho giới qui được chế định ra cho hai giới xuất gia và tại gia tín đồ của đệ tử đức Đạo sư, với công dụng và mục đích là đề phòng những điều phi pháp, đình chỉ mọi sự tạo tác ác của thân-khẩu-ý. Theo Bồ-đề tư lương luận 1 thì Thi-la cùng có sự tiếp cận với mười nghĩa như bản tánh, thanh lương, an ổn, an tịnh, tịch diệt, đoan nghiêm, tịnh khiết và tán thán. Trong mười nghĩa này, từ thanh lương trở xuống là để giải thích trở lại tịnh giới. Giới là cơ sở thực tiễn của đạo Phật, nên nó cùng với Định học, Tuệ học được gọi là ba học.  Hơn nữa Giới là một trong năm phần pháp thân (giới thân, định thân, tuệ thân, Giải thoát thân, giải thóat tri kiến thân), ở đây gọi là Giới thân, giới phẩm, hay giới uẩn (tức chỉ cho nghiệp thân-khẩu vô lậu). Đồng thời theo Phật giáo Đại thừa Giới cũng là một trong sáu Ba-la-mật, mười Ba-la-mật gọi là Giới Ba-la-mật. 

Trong thời kỳ đức Đạo sư còn tại thế thì giới chỉ được đem ra áp dụng sau khi Ngài thành đạo năm năm; tức là năm năm đầu của thời kỳ hoằng hóa của Ngài khi mà đệ tử xuất gia cũng như tại gia của Ngài càng ngày càng trở nên đông và mọi sinh hoạt trở nên phức tạp được biểu hiện qua thân-khẩu của các đệ tử của Ngài nhất là phái xuất gia, khi đó Ngài mới bắt đầu căn cứ vào những tùy phạm mà theo đó chế ra Giới theo thuật ngữ chuyên môn thì gọi là “Tùy phạm tùy chế”, chứ còn trước đó, trong vòng năm đầu Tăng chưa đông lắm, hơn nữa thời gian này Tăng sống theo nếp sống “vô sự” nên mọi tác nghiệp ác chưa xảy ra nên vấn đề chế giới không được đức Đạo sư đặt ra. Tăng lúc này chỉ sống theo một bài kệ được đức Đạo sư giáo giới với tinh thần khuyến khích nhắc nhở nổ lực cá nhân trong việc thực hành:

Các điều ác chớ làm
Các điều lành nên làm
Tự trong sạch ý mình
Đó lời chư Phật dạy.”
(Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.)

Bài kệ này được gọi là Giới Kinh và các Tỳ-kheo vô sự chỉ nổ lực thực hành đúng bài kệ này thì coi như ba nghiệp thân-khẩu-ý thanh tịnh, cộng với nếp sống theo pháp Lục hòa nữa nên cuộc sống của Tăng đòan vào lúc đó luôn thể hiện được mọi sự an lạc trong cuộc sống hay còn gọi là nếp sống “Vô sự”. Đó là nếp sống không có Giới và chưa có mọi luật lệ nào quy định ràng buộc Tăng đòan, vì vậy trong thời gian này giới và luật không được đức Đạo sư đặt ra thành vấn đề cho cuộc sống. Nhưng kể từ khi chúng xuất gia của Ngài càng ngày đông, nên nếp sống sinh họat Tăng chúng bắt đầu trở nên phức tạp và, cũng từ đó trong Tăng đòan Tỳ-kheo bắt đầu phát sinh nếp sống “hữu sự” hay còn gọi là “đa sự”. Từ đây pháp hữu lậu cũng bắt đầu hiện hữu và, cũng từ đó tùy phạm tùy chế bắt đầu có mặt trong cuộc sống của Tăng đòan cho cá nhân và tập thể trong việc hòan thiệc việc thanh tịnh ba nghiệp thân-khẩu-ý. Đây là giai đoạn bắt đầu cho sự xuất hiện sự khác nhau giữa Giới và Luật được thể hiện qua nếp sống cá nhân và cộng đồng. Giới bảo vệ mọi hành vi cá nhân do thân-khẩu lúc nào cũng trở nên trong sạch trong việc hòan thiện ba nghiệp cho mỗi người, trong khi Luật là những phép tắt quy định trong việc xử phạt và điều hòa cuộc sống sinh họat tập thể của chúng Tăng theo một quy củ được đặt ra như các phương pháp yết ma an cư, Bố-tát, Tự tứ, thuyết giới, trị phạt … mà mục đích của nó là làm nhân duyên để hòan thiện cuộc sống sinh họat của tập thể chúng Tăng đem lại an vui lợi lạc cho tập thể. 

Theo các nhà Tiểu thừa có sự khác nhau về giới nam nữ dành cho hai hàng xuất gia và tại gia như đức Phật đã chế định ra năm giới, tám giới, mười giới, cụ túc giới dành cho hai hàng xuất và tại gia thuộc Tiểu thừa. Tuy nhiên bên các nhà Đại thừa vẫn áp dụng giới luật của Tiểu thừa trong sinh hoạt tu tập của mình, tuy có cộng thêm Giới Bồ-tát của riêng họ, nhưng giới luật của Tiểu thừa vẫn là pháp tu chính cho các nhà Đại thừa về Luật tạng. Trong phần Giới đức Đạo sư chia ra làm hai loại: Một là Tánh giới, hai là Già giới. Về Tánh giới Ngài y cứ vào bản chất của tội nếu là tội ác thì cái tội đó thuộc về Tánh tội và để đối trị lại Tánh tội này đức Phật dùng Tánh giới để ngăn ngừa; ngược lại nếu bản chất của nó chẳng phải là tội ác, nhưng chúng khiến cho mọi người bài báng, hoặc khiến cho tánh tội người khác khởi lên thì gọi là già giới. Còn nếu ai phạm vào tội ác của già giới thì cũng gọi là già tội.

Như vậy Tánh giới và Già giới theo sự phân chia của năm giới, tám giới, mười giới, hai trăm năm mươi giới của Tỳ-kheo  và, ba trăm bốn mươi tám giới của Tỳ-kheo Ni thì giới của bảy chúng đệ tử đức Phật đều có mặt của bốn giới thuộc về Tánh giới đó là: Giới sát sinh, giới trộm cắp, giới dâm dật (tà dâm), giới vọng ngữ đều thuộc về Tánh giới cả. Ngoài bốn giới này ra tất cả đều thuộc Già giới. Ở đây chỉ có giới của Tỳ-kheo Ni lên đến tám giới thuộc về Tánh giới và, Bồ-tát giới có mười Tánh giới và 48 già giới. Nhưng nói chung trong tất cả bảy chúng đệ từ của đức Phật đều có chung cơ bản bốn giới này. Bốn giới này theo đức Đạo sư thì dù Phật có ra đời có chế giới hay không chế giới chúng luôn luôn vẫn là Tánh giới hay còn gọi là trọng giới, hay chủ giới. 

Theo Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao quyển trung thì Giới được phân ra làm bốn phần riêng biệt: Giới pháp, giới thể, giới hành, giới tướng.

- Giới pháp, là phép tắc của giới được đức Phật chế ra làm nguyên tắc sống, sinh họat trong một tập thể như là nguyên tắc luật lệ chung cho tập thể sinh họat của Tăng đoàn.

- Giới thể, là chỉ cho tánh thể của giới có tác dụng lợi ích về mặt vô biểu, do mỗi người nổ lực trong việc phòng phi chỉ ác (phòng ngừa những điều phi pháp và đình chỉ không tạo các việc ác). 

- Giới hành, là chỉ cho hành động của mỗi cá nhân trong việc thực hành giữ giới (trì giới) mà mình đã nhận lãnh.

- Giới tướng, là chỉ cho tướng mạo của giới mà mỗi cá nhân phãi trì giữ, tức là chỉ cho tên gọi của tất cả những giới điều mà mình đã nguyện thọ trì như tên gọi tên riêng của năm giới, mười giới, hai trăm năm mươi giới, ba trăm bốn mươi tám giới hay, năm mươi tám giới v.v…

Về giới thể vì những tác dụng có được đó chúng ta không thể nào dùng mắt để thấy được như việc khi một đệ tử của đức Phật nhận giới và, được gọi là đắc giới là phải nhờ vào nghi thức thọ giới tức tác pháp yết-ma, tức là theo luật nghi (nghi thức của luật) mới được gọi là đắc giới; vì sự đắc giới này chúng ta không thể thấy cho nên gọi là vô biểu. Luật nghi Phạn ngữ gọi là saṃvara phiên âm là tam-ba-ra, có nghĩa là đẳng hộ, ủng hộ, phòng hộ, hộ, cấm giới, tức là giới ngăn ngừa đình chỉ các việc ác, gồm có phòng chỉ ba ác thân, khẩu, ý, bảo hộ sự tác dụng của sáu căn. Vì luật pháp nghi tắc có khả năng sản sinh ra tác dụng đề phòng những sai trái và làm dừng lại mọi việc ác, nên được dịch là luật nghi. Vì thế nên Câu Xá luận 14 gọi luật nghi có nghĩa là đề phòng và đình chỉ các việc ác của thân, miệng, và ý; theo đó luật nghi được phân ra làm ba: thân luật nghi, ngữ luật nghi, ý luật nghï; riêng để bảo hộ sáu căn thì gọi là căn luật nghi. Trong bốn loại luật nghi này, hai loại đầu lấy vô biểu làm thể và, hai luật nghi sau lấy chánh niệm, chánh tri làm tự tánh. Nhưng ở đây vô biểu không bị giới hạn theo luật nghi.

Theo Nhất thiết hữu bộ chỉ chấp nhận hành vi thiện ác, thế lực của nó mạnh hay yếu được biểu hiện trên ngôn nữ hay nơi thân (thân biểu nghiệp, ngữ biểu nghiệp), hoặc do định sản sinh phòng chỉ tạo ra tác dụng tạo tác thiện ác, do đây hình thành một loại tính cách hậu thiên, đó là vô biểu. Chúng tuy là vô biểu nhưng vô biểu này thuộc một loại sắc pháp, cho nên được gọi là vô biểu sắc. Vô biểu này có ba loại, chúng do thành lập thệ nguyện quyết ý thật hành thiện ác nên gọi là luật nghi vô biểu (hình thái tình cảm của tâm thiện), hoặc bất luật nghi vô biểu (hình thái tình cảm của tâm ác); nếu mà tùy theo duyên đúng lúc mà sinh ra tâm thiện ác thì gọi là xứ trung vô biểu (còn gọi là phi luật nghi phi bất luật nghi vô biểu). Ở đây, luật nghi vô biểu tức là chỉ cho vô biểu của giới thể.

Theo Thành thật luận thì cho rằng vô biểu thuộc pháp phi sắc phi tâm, và cũng theo đây Luật tông Nam Sơn cũng cho rằng vô biểu thuộc pháp phi sắc phi tâm. Theo Duy thức tông của Đại thừa thì chủ trương giới thể là chủng tử của tư tâm sở chỗ đạt được huân tập vào A-lại-da thức; trong khi tông Thiên thai thì cho rằng vô biểu thuộc giả sắc dùng vô biểu giới thể để trình bày. Ngòai ra theo các nhà Tiểu thừa chủ trương thì giới thể không tương tục, tức là chỉ hiện hữu trong một thời gian nào đó thôi, sau đó sẽ biến dịch và sẽ mất đi. Nhưng các nhà Đại thừa thì cho rằng một khi đã đắc giới rồi thì vĩnh viễn lâu dài không mất.

Theo các nhà Nhất thiết hữu bộ thì họ phân luật nghi vô biểu tức là Giới thể được phân ra làm bốn chủng loại:

A. Biệt giải thóat luật nghi còn gọi là biệt giải thóat giới, biệt giải luật nghi, Ba-la-đề-mộc-xoa luật nghi, Luật nghi giới, dục triền giới (giới lệ thuộc cõi dục) cho đến lúc được từ tác pháp thọ giới. Ở đây luật nghi được phân ra làm tám: 

1 . Luật nghi Tỳ-kheo,
2 . Luật nghi Tỳ-kheo Ni,
3 . Luật nghi Chánh học (Thức-xoa-ma-na),
4 . Luật nghi Cần sách (Sa-di),
5 . Luật nghi Cần sách nữ (Sa-di Ni),
6 . Luật nghi Cận sự Nam (Nam cư sĩ),
7 . Luật nghi Cận sự Nữ ( Nữ cư sĩ),
8 . Luật nghi Cận trụ (Nam Nữ cư sĩ thọ bát quan trai giới).

Luật nghi 1 & 2 thuộc thể Cụ túc giới, 3 thuộc thể của lục pháp giới, 4 & 5 thuộc thể của thập giới, 6 & 7 thuộc thể của ngũ giới, 8 thuộc thể của bát giới.

B. Tịnh lự luật nghi, còn gọi là Tịnh lự sinh luật nghi, Định cộng giới, hay sắc triền giới ( Giới lệ thuộc cõi sắc). Cho đến lúc được từ nhập thiền định. Bỡi vì trong thiền định tự nhiên lìa sai lầm và tuyệt không còn phi pháp, cũng tự nhiên khế nhập vào luật nghi pháp nhĩ, cho nên có khả năng phòng phi chỉ ác lỗi thất của bất thiện dục giới. Hơn nữa tịnh lự luật nghi có nơi gọi là tùy tâm chuyển giới, lúc ở trong định cùng tâm đồng khởi, lúc ra khỏi định cùng với luật nghi vô biểu đồng thời cùng diệt, cùng với định hữu lậu cùng sinh cùng diệt, nên được gọi là Định cộng giới.

C. Vô lậu luật nghi, còn gọi là đạo sinh luật nghi, hay đạo cộng giới. Biệt giải thóat và Tịnh lự luật nghi ở trên là hữu lậu giới còn vô lậu luật nghi thời thuộc vô lậu giới đoạn tận phiền não chúng liên hệ  đến các bậc thánh giả đạt được từ kiến đạo trở lên, tức là luật nghi có được khi vào trong định vô lậu; ở trong này tự nhiên xa lìa lỗi ác, khế hợp với luật nghi. Vô lậu luật nghi cũng là giới tùy tâm chuyển cùng với vô lậu đạo cùng sinh cùng diệt, cho nên gọi là đạo cộng giới. Ngược lại biệt giải thóat luật nghi thì không luận trạng thái của tâm như thế nào, chỉ cần không xả giới thì giới vĩnh viễn tương tục, cho nên gọi là không tùy tâm chuyển giới.

D. Đọan luật nghi, còn gọi là đoạn giới, tức cùng với cửu vô gián đạo chưa đến định cùng sinh với tịnh lự luật nghi và vô lậu luật nghi, có khả năng đọan trừ ác giới cùng phiền não của triền phuợc dục, nên gọi là đọan luật nghi. Đó là bốn chủng loại luật nghi theo các nhà Nhất thiết hữu bộ phân ra, bốn luật nghi này còn gọi là tứ giới.

Ngòai ra, theo Du-già sư địa luận 53 thì lại chia ra tám loại luật nghi, đó là năng khởi, nhiếp thọ, phòng hộ, hòan dẫn, hạ phẩm, trung phẩm, thượng phẩm, thanh tịnh. Bảy loại trên dành cho trạng thái quyết ý ở trong tâm lúc thọ giới thuộc biệt giải thoát luật nghi,  do đó mà có sự sai khác được phân chia theo thứ tự; còn loại sau cùng thuộc tịnh lự luật nghi và vô lậu luật nghi.           

Trong thập thiện giới khi hành thập thiện ngoại trừ ba loại quan hệ cùng tâm ý, bảy loại trước được gọi là thất thiện luật nghi; cũng giống thập thiện khi hành thập ác bảy chủng loại trước được gọi là thất bất thiện luật nghi. Ngoài đây ra, bất luật nghi còn gọi là ác luật nghi hay ác giới, lại dựa vào chức nghiệp mà phân loại, như mổ heo, săn bắn, cai ngục v.v… không đồng, theo kinh Niết-bàn 29 của Đại thừa thì có 16 ác luật nghi, còn theo kinh Đại phương tiện Phật báo ân 6 thì nói có 12 ác luật nghi.

Dưới đây chúng tôi sẽ phân tích nội dung của Biệt giải thoát luật nghi:

1. Năm giới: Đây la năm giới mà hai chúng cận sự nam luật nghi và, cận sự nữ luật nghi tại gia thọ trì, cho nên được gọi theo giới tính của từng hệ mà gọi thì gọi là Ưu-bà-tắc giới, hay Ưu-bà-di giới. Năm giới gồm có: (1) Giới không sát sinh,  (2) Giới không trộm cắp, (3) Giới Không tà dâm, (4) Giới không nói dối, (5) Giới không uống rượu. Ở Ấn Độ những tôn giáo khác cũng có năm giới tương tợ, như pháp điển Mã-nô đưa ra: không sát sinh, không nói đối, không trộm cắp, phạm hạnh (không dâm), không tham sân; còn Kỳ-na giáo thì dạy: không sát sinh, không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm, lìa dục. Đó là năm giới điều tương tợ với giới pháp của đức Đạo sư; ở đây chỉ có những sắp xếp theo thứ tự có khác nhau.     

2. Bát trai giới: Đây là giới dành cho những vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nguyện thọ trì trong vòng một ngày một đêm học tập xuất gia. Những ai thọ trì giới này thì gọi là Ô-ba-bà-sa ((Phạn gọi là upavāsa, nghĩa là sống gần các vị xuất gia (cận trụ), hay một ngày một đêm sống theo pháp thiện (thiện túc).)) Bát trai giới còn gọi là bát chi trai, bát quan trai giới, bát giới trai, Phật pháp trai, bát phần giới, bát giới, trai giới, nhất nhựt giới, cận trụ giới  hay cận trụ luật nghi. Trong năm giới của các đệ tử nam nữ tại gia thì trong giới thứ ba là không tà dâm thì giới này được đổi thành không dâm dục còn bốn giới kia không đổi và cộng thêm ba giới nữa là: (5) Thân không trang sức tràng hoa, thoa hương thơm, không ca múa xem nghe; (7) không nằm, ngồi giường cao rộng đẹp; (8) Không ăn phi thời (tức là không ăn quá giờ ngọ). 

3. Mười giới: Đây là giới dành cho nam và nữ xuất gia, ra khỏi nhà thế tục, từ biệt những người thân, cắt đứt mọi liên hệ tình cảm (ái) đối với người thân, tuổi không quá hai mươi, còn gọi là mười giới Sa-di, Sa-di Ni, hay còn gọi là Cần sách luật nghi (cho nam) và Cần sách nữ luật nghi (cho nữ). Về nội dung của mười giới này được liệt kê như sau: 1/ Không giết hại sinh mạng. 2/ Không trộm cắp. 3/ Không dâm dục. 4/ Không nói dối. 5/ Không uống rượu. 6/ Không thoa hương, trang sức tràng hoa. 7/ Không ca múa xem nghe. 8/ Không ngồi nằm giường cao rộng lớn. 9/ Không ăn phi thời. 10/ Không chứa của báu vàng bạc. 

Trong mười giới này đặt biệt là năm giới sau dành riêng cho Sa-di và Sa-di Ni, nhưng năm giới đầu cũng giống như năm giới của năm giới nam nữ cư sĩ tại gia. Cũng giống như Bát trai giới, năm giới đầu tất cả đều giống nhau dành chung cho cả xụất gia và tại gia nhưng đặc biệt ở đây giới thứ ba trong năm giới thì giới này khác nhau. Tại gia thì chỉ giới hạn trong việc vợ chồng không cho vượt qua giới hạn này nên gọi là không tà dâm, trong khi giới này dành cho Bát trai giới và nam nữ xuất gia thì hòan toàn nghiêm cấm không cho phạm phải vào giới dâm dục cho nên được gọi là Không được dâm dục.

4. Lục pháp giới: Giới sáu pháp này chỉ đặt biệt dành riêng cho các vị Sa-di Ni trước khi thọ giới Cụ túc (giới Tỳ-kheo Ni) thời gian là hai năm phải tuân giữ sáu pháp này, nên còn gọi là học pháp nữ, học giới nữ, chánh học nữ được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng phạn dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na Ni ngoài bốn giới trọng căn bản là Giới dâm, giới sát, giới đạo (trộm cắp) giới đại vọng ngữ ra, còn cần phải vâng giữ  sáu pháp. Theo Tứ phần luật 27 thì nội dung của sáu pháp được ghi như sau: 1/ Giới nhiễm tâm tương xúc (Không vì  tâm ái dục mà xúc chạm vào thân người nam). 2/ Giới đạo nhơn tứ tiền (Không được trộm bốn tiền của người trở xuống, trộm bốn tiền trở xuống là giới khuyết rất nặng đối với người mới thọ giới; nếu trộm năm tiền trở lên thỉ sẽ bị mặc tẫn (mặc nhiên bị trục xuất). 3/ Giới đọan súc sinh mạng (tức là không được giết hại mạng sống các loài vật). 4/ Giới tiểu vọng ngữ (Không được nói dối về tất cả mọi việc đối với mọi người, không phải đại vọng ngữ.) 5/ Giới phi thời thực (Không được ăn không đúng giờ). 6/ Giới ẩm tửu (Không được uống rượu). Đây là sáu pháp theo Luật Tứ phần; nhưng theo Thập tụng luật thì sáu pháp được liệt kê như sau: Dâm dục, Thâu đoạt (trộm cướp), Sát sinh, Vọng ngữ, Ma xúc nam tử khỏa thân (đụng chạm rờ mó khỏa thân của nam tử), Tróc nam tử chi thủ dữ y nhi cộng ngữ (nắm tay và áo người nam cùng nói chuyện). Về mặt nội dung ý thì không có sự sai khác nào, nhưng về mặt hình thức sắp xếp và thuật ngữ có sự sai khác. Riêng theo Ma-ha Tăng Kỳ luật thì ghi có mười tám việc (Thập bát sự) chứ không ghi là sáu pháp giới như các bộ khác như ở trên cũng như luật của Hữu bộ.

5/ Cụ túc giới: Phạn ngữ gọi là upasaṃpanna hay upasaṃpadā, theo ý nguyên ngữ của nó là chỉ cho những người thân cận ở bên chân Thế tôn, hoặc những ai tham gia vào giáo đòan trở thành đệ tử của Ngài khoảng năm năm đầu, và ý nghĩa  được dịch là tiến đến chỗ hòan tòan, hay gần tròn đầy nên được giải thích là “Cận Niết-bàn”. Nhưng sau đó giáo đòan đông sinh ra nhiều “hữu sự” phức tạp nên Ngài mới bắt đầu chế giới để cho các đệ tử của Ngài thọ trì làm thanh tịnh hóa ba nghiệp tùy theo căn cơ hòan cảnh mà có năm giới, mười giới chưa đầy đủ và hòan chỉnh cho vấn đề giải thóat, chỉ dành cho tại gia và những ai tập sự xuất gia chưa chính thức vào Tăng đoàn. Để chính thức vào Tăng đoàn lúc này những vị xuất gia theo Ngài cần phải thọ trì giới cấm đầy đủ hơn viên mãn hơn nên Ngài đã theo tướng phạm hữu sự của các nam nữ xuất gia mà chế ra Cụ túc giới. Giới cụ túc này còn gọi là Cụ giới, Tiến cụ giới, Cận viên giới, Đại giới. Đây là giới dành riêng cho nam nữ xuất gia sau khi đã tác pháp yết-ma lãnh giới Tỳ-kheo (Tỳ-kheo luật nghi) và Tỳ-kheo Ni (Tỳ-kheo Ni luật nghi). Giới cụ túc được phân ra thành hai tùy thuộc vào giới Tính của nam và nữ nên giới điều theo đó mà có phần khác nhau trong số giới điều. Nhưng trên đại thể Tánh giới và Già giới vẫn giống nhau dành cho Tỳ-kheo và Tỳ-kheo Ni. Về nội dung của giới điều thì Tỳ-kheo có 250 giới và, Tỳ-kheo Ni 348 giới. Sự chênh lệch số giới điều ở đây chúng tùy thuộc vào giới tính đã thể hiện trong cuộc sống của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo Ni nên đức Phật căn cứ vào tướng phạm của họ mà chế giới. Do đó chúng ta không thể căn cứ vào giới tướng nhiều và ít này mà kết luận rằng đức Phật đã thiên vị, hay không công bằng giữa nam và nữ. 

Theo Tứ phần luật thì 250 giới tướng Tỳ-kheo và 348 giới tướng Tỳ-kheo Ni này được chia ra là Năm thiên Bảy tụ: 

Năm thiên gồm: Một, Ba-la-di thiên. Hai, Tăng tàn thiên. Ba, Ba-dật-đề thiên. Bốn, Ba-la-đề-đế-xá-ni thiên. Năm, Đột-kiết-la thiên. Trong năm thiên này thêm Thâu-la-giá thì gọi là lục tụ. Thâu-lan-giá  là tội làm chướng ngại rất lớn đối với con đường đưa đến thiện đạo; tức là giữa hai tội Ba-la-di và Tăng tàng, nhưng chúng chưa hội đủ điều kiện để phạm vào hai tội này, nên đức Đạo sư liệt kê vào Thâu-lan-giá. Và cũng trong năm thiên trên, trong thiên thứ năm là Đột-kiết-la phát sinh ra tội Ác thuyết nên gọi nó là Tụ thứ bảy. Vì tội Đột-kiết-la chỉ được giới hạn do thân tạo ra nên gọi là Ác tác, còn lời nói tạo ra tội thì chưa đề cập đến nên tội do lời nói tạo ra thì được thêm vào và gọi nó là Ác thuyết. Như vậy thì Thất tụ có được chỉ là một sự bổ túc thêm sau từ sự khiếm khuyết của năm thiên mà ra. Vậy Năm thiên này chúng ta cũng có thể gọi là năm Tụ cũng được.

Như vậy mục đích của việc chế ra giới là đức Phật nhằm vào hai mục đích là phòng phi chỉ ác (cấm kị những việc làm phi pháp và đình chỉ không tạo ra các việc ác) và, nổ lực hành thiện như ý nghĩa nội dung bài kệ thông Giới kinh “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành …” mà bảy đức Phật quá khứ đã từng dạy và nay đức Đạo sư cũng đem ra dạy lại cho các Tỳ-kheo vô sự của mình, sau khi Ngài thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác được áp dụng trong vòng năm năm đầu khi Ngài chưa chế giới. 

Giới với mục đích là đưa hành giả đến chỗ thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu và ý nên vấn đề thực hành trì giới rất cần thiết quan trọng. Vấn đề trì giới được giải thích qua hai phạm trù tiêu cực và tích cực. Về mặt tiêu cực chỉ cho phòng phi chỉ ác, tức là hành giả luôn hiện quán trong ý nghĩ trong hành động (thân-khẩu) luôn luôn đề phòng các việc ác có thể xày ra, theo thuật ngữ chuyên môn thì đây gọi là “chỉ trì giới”. Về mặt tích cực nổ lực hành thiện, tức là trong ý nghĩ trong hành động thuộc thân-khẩu nổ lực thực hành càng nhiều càng tốt, chính vì sự thực hành này huân tập ba nghiệp thiện chúng ta càng ngày càng lớn mạnh, là nhân đưa đến sức mạnh (lực) quyết đi cho con đường tiến đến giải thoát không xa. Trong hành động tạo thiện này theo thuật ngữ chuyên môn thì gọi là “Tác trì giới”. Qua hai cách giải thích “Chỉ trì và tác trì” của hai mặt ác và thiện. Thì chỉ trì ác thì không phạm giới, và tác trì thiện thì không phạm giới; nhưng hành giả chúng ta nếu làm ngược lại phương pháp này thì tác dụng ngược lại và trở thành phạm giới. Nếu hành giả chỉ trì thiện thì phạm giới, và tác trì ác thì cũng phải phạm giới. Đây là đặc tính đặt biệt của một hành giả khi thọ giới và trì giới, cần phải thông hiểu để tránh khỏi những việc làm không đúng của mình, trong việc trì giới mà mình đã lãnh thọ. Từ đó chúng đẻ ra câu thuật ngữ mà bất cứ ai trì giới cũng phải thuộc và hiểu chính xác: 

“Chỉ trì, tác phạm 
chỉ phạm, tác trì.” 

Theo Quảng luật (chỉ cho tất cả các bộ Luật trong luật tạng) mà nói thì năm thiên, thất tụ thuộc chỉ trì giới, còn các phần Kiền độ thì thuộc phần tác trì giới. 

Ngòai ra theo luận Du-già Sư Địa 40 thì đưa có ba tụ tịnh giới có thể đại biểu cho Đại thừa Bồ-tát giới, tức là: Một, Nhiếp luật nghi giới, tức là tuân thủ những gì Phật đã chế về việc phòng chỉ mọi lỗi lầm. Hai, Nhiếp thiện pháp giới, chỉ có việc tất tu trong việc hành thiện cho mình. Ba, nhiêu ích hữu tình giới hay, còn gọi là nhiếp chúng sanh giới, đây là việc làm lợi người như giáo hóa chúng sanh khiến họ được mọi lợi ích. Nhưng theo Đồng luận 42 thì Bồ-tát giữ sáu loại giới: Hồi hướng giới, Quảng bác giới, Vô tội hoan hỷ xứ giới, Hằng thường giới, Kiên cố giới, Thi-la trang nghiêm cụ tướng giới. Đó là Bồ-tát giới của Đại thừa giáo gọi là Trì giới Ba-la-mật. 

Qua những giới dành cho tại gia, xuất gia chưa chính thức vào Tăng đòan của Sa-di, Sa-di Ni và Thức-xoa-ma-na ra thì giới của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo Ni thuộc giới Thinh Văn của Tiểu thừa giáo và Giới Bồ-tát thuộc Đại thừa giáo có sự đồng dị trên mặt ý nghĩa của chúng. Theo giới luật của Thinh văn thì ý nghĩa của nó không ngoài thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý cho chính bản thân mỗi cá thể trong vấn đề tự lợi còn vấn đế lợi tha họ không để ý đến; trong khi Giới Bồ-tát kể cả xuất gia và tại gia cả hai đều được áp dụng một cách đồng loạt trong việc tự lợi và lợi tha. Đó là nét đặc trưng của Đại thừa giới. Thật ra đây cũng chỉ là để phù hợp và thích ứng căn cơ và nguyện lực của hành giả mà thôi. Như Đại Trí độ luận 46 nói thì Giới Ba-la-mật là tổng nhiếp tất cả các pháp, mà Thập thiện là giới tổng tướng (tánh giới), còn tất cả vô lượng giới khác đều là giới biệt tướng (Già giới). Theo Kinh Phạm Võng luật điển của Đại thừa thì Năm mươi tám giới của Bồ-tát: Mười giới trọng đầu gọi là mười trọng cấm thuộc tánh giới, còn gọi là mười trọng cấm giới, Mười vô tận giới, hay mười trọng Ba-la-đề-mộc-xoa, hay mười Ba-la-di, mười giới không thể hối và bốn mươi tám giới khinh sau cùng gọi là khinh giới thuộc khinh cối tội của già giới dành chung cho các vị nam nữ tại gia và xuất gia. 

Theo Thiên Thai tông chủ trương thì giới có thể phân ra làm hai Quyền giới và Thật giới. Theo Pháp Hao huyền nghĩa 4 thì tất cả những giới được đức Phật chế ra từ năm giới cho đến cụ túc giới của Tiểu thừa cùng Du-già sư Địa luận, Bồ-tát thiện giới kinh v.v… của Đại thừa là quyền giới cộng thông cho cả ba thừa, nhưng đặc biệt đại giới của Phạm Võng thời thuộc Thật giới  của tương đối. Song theo Pháp Hoa Viên giáo thì “Khai Tam hội nhất”, mở là nói quyền giáo ba thừa, nhưng hội quy về Thật giáo nhất thừa, theo Pháp hoa thì tất cả giới luật đều quy hướng về Thật giới tuyệt đối.

Ngoài những cách giải thích về giới tướng được nêu ra ở trên thì theo Ma-ha chỉ quán 4 phần đầu thì Giới được chia ra làm hai phần: Sự giới và lý giới. Sự giới chỉ cho những giới tướng mang hình thức cụ thể được qui ra thành những giới điều như năm giới, sáu giới, bát giới, mười giới, hai trăm năm mươi giới, ba trăm bốn mươi tám giới, hay năm mươi tám giới, đó là những giới điều mang hình thức qua giới tướng thuộc về phần sự giới. Lý giới chỉ cho những giới tướng của sự giới qua cách hiện quán của ba cách quán “Không-giả-trung” thì gọi là lý giới hay còn gọi là ly tướng giới. 

Theo các nhà Thiên Thai tông Trung quốc chủ trương lấy Diệu giới hay lý giới của đốn giáo tuyệt đối với tất cả giới. Nhưng cùng giới này, sang Phật giáo Nhật Bản thì cách giải thích có tiến bộ hơn một bước, Tối Trừng một Tăng nhơn Nhật bản đã y cứ vào kinh Pháp Hoa chủ trương lập trường “Khai-Hiển” dùng mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh của kinh Phạm Võng đem liên hệ với những gì Phật Tỳ-lô-xá-na đã nói về giới, lấy lợi người làm căn bản, theo đó giới thể một khi đã đắc thì vĩnh viễn không mất và, giới cảnh là pháp giới vô biên, không bị giới hạn đối với ba nghìn đại thiên thế giới, còn giới tướng chính là ba tụ tinh giới, người trì giới và phạm giới đều không có một nguyên tắc nào nhất định, việc truyền trao giới cũng không giới hạn cho cả thông và biệt. Truyền giới thông cho tất cả xuất gia và tại gia, cùng một luật lấy Ba tụ tịnh giới tác pháp truyền chung thì đó gọi là thông thọ. Trong khi truyền trao riêng thì y cứ vào nhất bách tam yết-ma, hay pháp tam quy truyền riêng cá biệt cho mỗi người thì đó gọi là biệt thọ. Loại giới này đặc xưng là Viên đốn giới, hay còn gọi là Phạm võng Bồ-tát giới, hay Thiên Thai Viên giáo Bồ-tát giới, Bồ-tát Kim cương thật giới, Nhất thừa giới, Nhất thừa Viên giới, Nhất tâm giới, nhất tâm Kim cương giới, Đại thừa Viên đốn giới, Viên đốn Bồ-tát giới, Viên đốn vô tác giới, Viên giới, Đại giới.

Theo Chân ngôn tông nói về tam-muội-da giới tức ý chỉ cho giới bình đẳng, chỉ thân khẩu ý của Phật cùng chúng sanh ba mật bình đẳng tuyệt đối theo lý.  Một chân ngôn bí mật giới này lấy tâm Bồ-đề thanh tịnh, vốn đầy đủ của chúng sanh làm giới thể và lấy muôn đức vô lượng pháp giới làm hành tướng. Đại Nhật kinh nói về bốn trọng cấm hay còn gọi là bốn trọng giới: Một, giới không nên bỏ chánh pháp. Hai, giới không nên lìa bỏ tâm Bồ-đề. Ba, giới đối với tất cả pháp không nên bủn xỉn. Bốn, giới đối với tất cả chúng sanh không nên không tạo hạnh nhiêu ích. Lại, không thối tâm Bồ-đề, không hủy báng Tam bảo, không sinh lòng nghi ngờ, không khiến thối lui tâm Bồ-đề, không khiến phát tâm nhị thừa, không vội nói đại thừa thâm diệu, không phát tà kiến, không nói ta có đầy đủ vô thượng đạo giới, bỏ tất cả những việc không lợi ích, đó là mười giới trọng. 

Ngoài ý nghĩa cùng những giới tướng từ những thuộc tính đưa đến những sự tướng có được của giới, chúng ta còn có nghi thức để lãnh thọ giới pháp (giới đàn pháp) được chúng tôi liệt kê theo đây để cho mọi người cùng biết: 

Tiếp nhận giới pháp thì gọi là nhận (thọ) giới.
Giới sư truyền cho giới pháp gọi là truyền giới.
Trì giữ giới pháp gọi là trì giới.
Truyền giới có một nghi thức nhất định gọi là giới nghi.

Lễ truyền giới, có Hòa thượng truyền giới (đầy đủ phải tam sư thất chứng), hoặc là truyền giới sư (Thiên Thai tông Nhật Bản khi truyền Viên đốn giới, thì lấy Thế tôn là Hòa Thượng truyền giới, còn hiện tiền những vị sư truyền giới thì gọi là truyền giới sư) làm giới sư.

Thọ giới có nhiều loại hình thức, như thọ chung cùng thọ riêng, tự nguyện thọ (nhận) cùng thọ (nhận) từ người khác, thọ một phần cùng thọ tòan phần. Ở đây, thọ tự nguyện là không cần những hình thức tam sư thất chứng, duy chỉ tự mình đối trước Phật thệ nguyện rằng mình xin nhận giới, còn nhận giới từ người khác tức là theo hình thức phải có tam sư thất chứng từ người khác mà nhận giới.

Giới thể có hai, Khi hành vi của thân, ngữ chúng ta kinh qua nghi thức thọ giới thì hành vi làm việc này gọi là biểu nghiệp, lúc mới bắt đầu thọ giới thì gọi là tác giới hay là giáo giới. Tác giới hay giáo giới không mang tính liên tục mà chỉ được giới hạn trong thời gian bắt đầu tác pháp giáo giới để đưa đến yết-ma thọ giới, thời gian này mang hình thức thể hiện của thân và ngữ nghiệp được biểu hiện nên được gọi là biểu nghiệp. Sau khi chúng ta nhận tác pháp yết-ma thọ giới xong được thể hiên qua thân hành và ngữ hành, nhân đây chúng ta đắc giới được giới thể. Sau khi chúng ta đắc giới được giới thể và từ đó trở về sau giới thể này tương tục luôn luôn, chúng có khả năng tác dụng bảo trì giới một cách liên tục vô hình trung, nên được gọi là vô tác giới, hay còn gọi là vô biểu nghiệp; chúng sẽ mất khi thân và ngữ chúng ta được biểu hiện làm cho người đối diện biết rằng mình muốn xa lìa giới hay xả giới thì giới liền mất.

Vấn đề đắc giới thể hay mất giới thể, theo Câu Xá luân 14 & 15 giải thích như sau: Luật nghi biệt giải thóat cần phải dùng đến các duyên tam sư thất chứng mới đắc giới; nhưng được gọi là mất giới, hay xả giới thì cần đến một trong năm duyên mới mất giới: Một, ý lạc (có tâm phạm giới). Hai, tử vong. Ba, khi mang lưỡng tính (nam & nữ, nhị hình), Bốn, đọan thiện căn. Năm, qua khỏi thời gian một ngày một đêm thì giới tự mất (dành cho giới Bát quan trai).

Ngoài ra muốn đắc Cụ túc giới thì cần phải có một trong mười duyên này: Một, tự nhiên được, tức do giác ngộ mà được, như Phật hay Độc giác. Hai, nhờ kiến đế mà được, tức là nhập vào kiến đạo mà được, như năm anh em Kiều Trần Như. Ba, thiện lai mà được, tức chỉ cần Phật bảo thiện lai là được, như Da-xá. Bốn, tự thệ nguyện mà được, tức là tin nhận Phật là đại sư mà được, như tôn giả Đại Ca-diếp. Năm, do luận nghị mà được, tức cùng Phật vấn đáp mà được, như Tô-đà-di. Sáu, tác kính trọng mà được, tức thọ Bát kỉnh pháp mà được, như Ma-ha-ba-xà-ba-đề. Bảy, sai tin mà được, tức được Phật sai khiến truyền trao cụ túc giới mà được, như pháp truyền trao cho Ni. Tám,  tác ngũ nhơn mà được, tức vùng biên giới của nước Tăng không đủ túc số, nên chỉ cần năm vị truyền giới sư mà được. Chín, do Yết-ma mà được, tức cần tam sư thất chứng tác yết-ma để truyền trao giới mà được giới. Mười, tam quy mà được, tức quy y Phật, Pháp, Tăng Tam bảo mà được.

Lại nữa, giới phân ra làm năm loại, đây gọi là năm phần giới: Người thọ trì tam quy và giữ một trong năm giới gọi là nhất phần giới; người thọ trì tam quy cùng thọ trì hai giới trong năm giới gọi là thiểu phần giới; nếu thọ trì hai giới mà phá một giới thời gọi là vô phần giới; thọ trì ba hay bốn giới gọi là đa phần giới; thọ trì năm giới thì gọi là mãn phần giới.

Vị nào thọ Sa-di giới chưa lâu thì gọi là tân giới; nếu người nào mới thọ (Sa-di) với hy vọng sẽ sinh về chổ lành các cõi Trời thì gọi là hy vọng giới; người nào sợ người khác trách mắng mà thọ giới thì gọi là khủng bố giới hay là bố úy giới; vị nào muốn bày giác chi, trang nghiêm tâm mình mà thọ giới thì gọi là thuận giác chi giới; vị nào muốn lìa cấu phiền não mà thọ giới thì gọi là vô lậu thanh tịnh giới. 

Y cứ vào Tứ phần luật 16 thì nếu phạm các tụ Ba-la-di, Tăng tàn, Thâu-lan-giá (giới phần) thì gọi là phá giới; phạm vào các tụ Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la, ác thuyết (oai nghi phần) thì gọi là phá oai nghi. Sau khi thọ giới xong, người thường phạm giới, thế lực của giới thể ngày càng suy giảm yếu dần, song vẫn chưa xả giới, thời gian này được gọi là giới luy (sút kém); ngược lại sau khi đắc giới vị đó càng ngày càng tinh tấn trong việc thọ trì giới, khiến giới thể càng ngày càng lớn mạnh hơn lên từ từ thì, gọi là giới phì.

Người phá giới sau khi chết sẽ đọa vào ba đường ác, theo Tứ phần luật 29, người phá giới có năm lỗi: Một, tự hại. Hai, bị người khác quát mắn. Ba, tiếng xấu đồn vang. Bốn, đến lúc chết sinh hối hận. Năm, sau khi chế đọa vào đường ác. Nếu đối với giới luật lấy tà kiến mà chấp trước thì, gọi là giới cấm thủ kiến (là một trong năm kiến). Như Ngưu cẩu ngoại đạo trì ngưu giới, cầu giới, kê cẩu giới v.v… tất cả đều thuộc giới cấm thủ kiến. Trường hợp nếu chưa phá giới nhưng khởi phiền não mà làm nhiễm ô giới thì, gọi là ô giới. Trường hợp tương đối, với tịnh giới mà nói thì, giới của nhiễm ô này cũng gọi là ô giới. 

Như trên chúng ta đã biết, giới với mục đích là làm thanh tịnh hóa ba nghiệp thân, khẩu, và ý. Nếu ba nghiệp này của chúng ta thanh tịnh sạch như băng tuyết thì lo gì chúng ta không giải thoát được những thứ phiền não chướng khổ làm ngăn trở trên bước đường giải thoát cho chúng ta. Vì giới theo nhân quả thì nó chính là nhân đưa đến giải thóat khổ của chúng ta, dù đứng trên mặt tương đối hay tuyệt đối nó vẫn là nhân và duyên đưa đến giải thoát khổ và, đạt an vui trong giải thoát ngay trong cuộc sống hiện tại này của chúng ta; và cũng là bước đầu đưa đến định trong hiện quán về khổ và xa lìa khổ một cách như thật trong trí tuệ.
 

II- ĐỊNH, Sanskrit gọi là Samādhi (Pāli: Samādhi) dịch âm là tam-ma-địa, có nghĩa là định, tức là chuyên tâm chăm chú vào một đối tượng nào đó, mà tinh thần chúng ta không bị chi phối bỡi bất cứ một tác động nào khác ngoài đối tượng đó; hoặc là chỉ cho trạng thái ngưng đọng tĩnh lặng. Ngược lại với những trạng thái này thì chúng ta gọi là tâm bị tám loạn hay gọi là định tán. Theo Câu Xá tông và Duy thức tông thì định này là một trong những tâm sở; và Câu Xá tông lấy nó làm một trong mười đại địa pháp, còn Duy thức tông lấy nó làm một trong năm biệt cảnh. Đây là một trạng thái tinh thần đặc thù có được khi hành giả tu hành khiến tâm không bị tán loạn, mà chúng ta khi tiến đến cảnh này theo tuần tự có những sai biệt, nhưng dù có sự sai biệt theo sự ổn định của tâm, chúng vẫn được gọi chung là định. Lại nữa nhờ vào chỉ (śamatha = xà-ma-địa), quán (vipśyanā = Tỳ-bà-xá-na) hành giả cũng có thể tuần tự đạt được những cảnh giới tùy theo căn cơ và lực định nhiều hay ít mà theo đó có những kết quả sai biệt như tứ thiền, tứ vô sắc, nhị vô tâm định v.v…, hoặc gọi chung là thiền định, hoặc dùng một tánh cảnh nghĩa của tâm mà gọi là samādhi (tam-ma-địa), hoặc còn gọi là tam-muội. Ở đây, định được coi như là một phạm trù trong ba phạm trù ba học Giới-định-tuệ, là đại cương của phương pháp học thực tiễn của Phật giáo. Hơn nữa, định này cũng được gọi là Thiền định, hay Thiền-na (dhyāna), Tịnh lự theo chánh định trong bát Thánh đạo hay trong các pháp trợ đạo thì nó là một trong Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi.

Về ý nghĩa của định thì có rất nhiều thuyết khác nhau, căn cứ vào Trí độ luận 28 thì, Thiền định và tứ Thiền, cả hai đều gọi là định hay tam-muội, nhưng theo Thập trụ Tỳ-ba-sa luận thì, Thiền chỉ cho Tứ thiền, còn định chỉ cho Tứ vô sắc định, Tứ vô lượng tâm v.v… Theo Thành duy thức luận liễu nghĩa đăng 5 thì định có những tên khác nhau: và, được chia ra làm bảy loại: 

- Một, Tam-ma-hứ-đa (samāhida), nghĩa là đẳng dẫn. Đẳng có nghĩa là xa lìa tâm trôi nổi của trạo cử, hôn trầm mà bảo trì bình đẳng đến khi nào cả hai thân và tâm đều ở trạng thái an ổn. Dẫn, có nghĩa là do tự lực mỗi cá nhân mà dẫn khởi phát sinh mọi công đức. Hành giả nào thường tu định này thì lìa được các phiền não và đưa đến sự phát sinh các thứ công đức thù thắng vi diệu. Đẳng dẫn này thông cả cho hai tâm định hữu và vô, nhưng nó không thông cho tán lọan. 

- Hai, Tam-ma-địa, hay tam-muội (samādhi), có nghĩa là đẳng trì, còn gọi là chánh tâm hành xứ. Hành giả nào thường tu định này thì, tâm sẽ đoan trực, an trụ bất động vào một cảnh, có ngh